trẻ em là mai sau của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình. Đầu tư cho trẻ mỏ là đầu tư cho phát triển bền vững, cho nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa giang san và hội nhập quốc tế. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho trẻ em, tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền trẻ con. Hiến pháp năm 2013 quy định: “trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, săn sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về con nít. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức công sức và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Trong giai đoạn vừa qua, với việc triển khai thực hiện Quyết định 267/QĐ-TTg ngày 22/2/2011 của Thủ tướng Chính phủ chuẩn y Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em giai đoạn 2011-2015 đã thúc đẩy và đặt nền móng cho việc bảo vệ trẻ nít theo cách tiếp cận mới đó là xây dựng và củng cố hệ thống bảo vệ trẻ nít, từng bước đảm bảo các điều kiện cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em từ khâu dự phòng, giảm thiểu nguy cơ trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, trẻ mỏ bị tổn hại, đến việc viện trợ con nít có hoàn cảnh đặc biệt phục hồi, hòa nhập cộng đồng và có cơ hội tạo ra. Theo đó, hệ thống bảo vệ trẻ mỏ được củng cố với các thành phần cơ bản, từng bước đáp ứng việc cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em từ việc phòng ngừa, phát hiện kịp thời các trường hợp trẻ có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, đến việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ phục hồi, tái hòa nhập gia đình, cộng đồng cho trẻ mỏ có hoàn cảnh đặc biệt. Nhờ vậy, tỉ lệ con trẻ có hoàn cảnh đặc biệt đã giảm từ 6% năm 2011 xuống còn 5,6% năm 2015; 70% trẻ thơ được phát hiện có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt được can thiệp để giảm bớt, đào thải nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và 85% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được giúp đỡ, coi ngó để phục hồi, hòa nhập đồng đội và có cơ hội sản xuất tốt hơn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và vận hành hệ thống bảo vệ con trẻ nhưng trên thực tại, các điều kiện để vận hành hệ thống bảo vệ trẻ em còn chưa đảm bảo như: đội ngũ những người làm công tác bảo vệ, chăm sóc con trẻ ở cơ sở còn thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực, đặc biệt là đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bảo vệ trẻ em ở thôn, bản; hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ con nít vẫn chưa đáp ứng nhu cầu cần sự trợ giúp của mọi trẻ nít; kinh phí bố trí cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách viện trợ trẻ mỏ có hoàn cảnh đặc biệt còn rất hạn chế. Do đó, kĩ năng đề phòng, phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ gây tổn hại cho trẻ mỏ cũng như công tác giáo dục, phục hồi, hòa nhập đồng đội cho trẻ mỏ có hoàn cảnh đặc biệt chưa hiệu quả. Dường như, tình hình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa tạo nhiều cơ hội mới, song vẫn cũng mang lại nhiều thách thức và sẽ đấu gia tăng áp lực đối với công tác bảo vệ trẻ nít: phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, thất nghiệp, gia tăng tình trạng di cư, tạo áp lực lên đời sống của nhiều gia đình, dẫn đến nhiều gia đình không có thời gian quan tâm đến trẻ nít, môi trường bảo vệ trẻ thơ quan trọng nhất bị suy giảm. trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt vẫn còn số lượng lớn (khoảng 1,5 triệu em); tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, bị bạo lực không giảm; tình trạng kết hôn ở lứa tuổi chưa thành niên còn khá phổ biến ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số chưa được ngăn chặn kịp thời; xuất hiện và gia tăng các nguy cơ xâm hại trẻ em trên môi trường mạng, nguy cơ du lịch với mục đích xâm hại tình dục trẻ nít, mua bán con trẻ…
Ngày 22/12/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2361/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình bảo vệ con nít giai đoạn 2016-2020 với mục tiêu: “Mọi trẻ em đều được bảo vệ để giảm nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt, chú trọng bảo vệ trẻ em để không bị xâm hại; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được viện trợ, chăm sóc để phục hồi, hòa nhập tập thể và có cơ hội tạo ra”. Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Chương trình bảo vệ trẻ thơ giai đoạn 2016-2020 được triển khai với nội dung trọng tâm là: tiếp chuyện củng cố hệ thống bảo vệ trẻ em đủ năng lực ngừa, ứng phó với các nguy cơ gây tổn hại đến trẻ em, trợ giúp, phục hồi cho trẻ em bị tổn hại. Các hoạt động của chương trình bao gồm:
1. Nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng bảo vệ, trông nom trẻ em cho chính quyền các cấp, các tổ chức, gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và bản thân trẻ mỏ thông qua việc tổ chức các cơ chế truyền thông hiệp với từng vùng, miền, từng nhóm đối tượng.
2. Củng cố hệ thống tổ chức, nhân lực và nâng cao năng lực cho đội ngũ công chức, viên chức, cộng tác viên làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em đáp ứng với nhu cầu của công tác bảo vệ con nít.
3. sản xuất hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên nghiệp, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu cần sự bảo vệ của mọi con trẻ.
4. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống theo dõi, giám sát và đánh giá thực hiện chương trình đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý con trẻ nói chung, đánh giá và phát hiện kịp thời các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ mỏ có nguy cơ bị xâm hại nói riêng, làm cơ sở để xác định các biện pháp trợ giúp ăn nhập, hiệu quả.
5. Tiếp tục hoàn thiện điều khoản, chính sách, tạo nhà xí pháp lý và các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và vận hành hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ con nít ở các cấp. Xây dựng danh mục tiêu chuẩn, quy trình thu nạp và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. Hoàn thiện thể chế về bảo vệ trẻ nít trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính.
Một số giải pháp để triển khai thực hiện chương trình, đó là: Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác bảo vệ con nít. Nâng cao hiệu quả hoạt động và điều hành của ban chỉ đạo, ban điều hành bảo vệ con nít các cấp; bố trí đủ nhân lực, kinh phí và các điều kiện cần thiết khác cho việc thực hiện công tác bảo vệ trẻ thơ. Đưa các mục tiêu bảo vệ con trẻ vào kế hoạch sản xuất kinh tế – xã hội giai đoạn 5 năm và hàng năm ở Trung ương và địa phương. Duy trì việc thực hiện hiệu quả cơ chế báo cáo, thông tin tới các cấp về công tác bảo vệ con nít.
tăng cường thông tin, truyền thông, giáo dục, vận động xã hội nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bảo vệ con trẻ của chính quyền các cấp, các tổ chức, gia đình, nhà trường, tập thể xã hội và trẻ thơ.
Tăng cường công tác thanh tra, thẩm tra, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, coi ngó con trẻ hàng năm, giữa kỳ và cuối kỳ; phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quyền trẻ em.
Đa dạng hóa việc vận động nguồn lực từ các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức trong nước và quốc tế cho việc thực hiện chương trình; khuyến khích các tổ chức, cá nhân hỗ trợ nguồn lực để thực hiện các hoạt động bảo vệ trẻ em.
ĐÀO HỒNG LAN
Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH
(Theo Bộ LĐ-TB-XH)