Thật không may, khi chúng tôi bắt đầu hiểu hơn về đa dạng sinh học của Việt Nam, nhiều loài và hệ sinh thái toàn bộ đang phải đối mặt với những áp lực khủng khiếp đang đe dọa sự tồn tại của chúng.
Một tỷ lệ lớn các hệ thực vật và động vật của Việt Nam đang bị đe dọa tuyệt chủng. Rao vặt năm 2004, nhà sinh vật học từ IUCN đã phân loại khoảng 16% động vật có vú, 9% của các loài bò sát (bao gồm rùa, tất cả các loài ngoại trừ 4) và 5% các loài chim bị đe dọa toàn cầu trong các chuyên mục.
Các vùng đất ngập nước thủy triều có thể có sự thay đổi rất lớn và hệ sinh thái như rừng ngập mặn có thể biến mất cùng với tất cả các sinh vật sống trong hoặc phụ thuộc vào hệ sinh thái này nếu chúng ta không thích ứng nhanh chóng với những thay đổi này.
Nhiều loài cây cũng cũng đã được xếp loại, trong đó có 63% trong số 24 loài tuế của đất nước. Những con số này chắc chắn đánh giá thấp hơn bởi vì có rất ít thông tin về mật độ và phân bố của phần lớn các loài thực vật và động vật và hơn nữa có rất ít thông tin về tình trạng của các quần thể của chúng.
Bên cạnh đó mối đe dọa gián tiếp này đến đa dạng sinh học của Việt Nam, tác động đe dọa trực tiếp rõ ràng hơn. Hai mối đe dọa trực tiếp và quan trọng nhất đối với đa dạng sinh học của Việt Nam là sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên và suy thoái và mất môi trường sống.
Mức độ ảnh hưởng tương đối của chúng phụ thuộc vào từng loài hoặc môi trường sống được quan tâm. Mối đe dọa ít được biết đến hơn là từ các loài xâm nhập (loài bản xứ hoặc loài ngoại nhập, được giải phóng một cách vô tình hay hữu ý) và nhanh chóng mở rộng các quần thể và chiếm ưu thế so với các loài khác và có tiềm năng gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ sinh thái. Ô nhiễm có tiềm năng quan trọng, nhưng hiện có ít thông tin về những tác động trực tiếp của nó lên đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Tương tự van ban quy pham phap luat moi truong, những tác động của khí hậu thay đổi trên toàn cầu còn ít được biết tới nhưng nó có lẽ sẽ có những tác động lâu dài và nặng nề do đất nước có đường bờ biển dài và các châu thổ có độ cao thấp. Mặc dù một mối đe dọa không đủ để gây ra tuyệt chủng của một quần thể hoặc một loài động vật hoang dã hoặc phá hủy một hệ sinh thái, nhiều mối đe dọa kết hợp với nhau lại là một vấn đề hoàn toàn khác.
Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam liên quan đến nhiều hoạt động trong đó có săn bắt, đánh cá, khái thác gỗ và thu thập động vật và thực vật không bền vững. Khai thác quá mức đã trở thành một mối đe dọa nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học của Việt Nam và ngày càng mở rộng ra nhiều loài động thực vật khác trong khi đã có hàng trăm loài bị ảnh hưởng.
Việc khai thác trực tiếp của động vật hoang dã ở Việt Nam, bất kể lý do gì, và bất cứ điều gì đang diễn ra phía trước, là mối đe dọa chính đối với nhiều loài có xương sống ở Việt Nam, đặc biệt là động vật có vú loài, một số loài chim và rùa. Mối đe dọa chính đối với các loài vượn Việt Nam (Hylobates như [Nomascus]) và voọc (Trachypithecus và Pygathrix như) là săn bắt phục vụ hoạt động kinh doanh thương mại.
Các nhà nghiên cứu đã xác định số lượng tối thiểu thiệt hại trong nước từ năm 1990 và 2000 do săn bắn cho hai loài đặc hữu ở Việt Nam, voọc trắng (T. poliocephalus poliocephalus) và voọc mông trắng (T. Delacouri). Số lượng cá thể của hai loài đã được giảm một nửa trong vòng một thập kỷ qua, với số lượng tối thiểu là 100 và 316 cá nhân tương ứng, bị mất để săn bắn. Săn bắn đã bị mất hơn voọc đầu trắng 30 cá nhân từ năm 2000 đến năm 2002 và các quần thể của loài này vào năm 2004 trong khoảng từ 50 đến 60 con. Ước tính có khoảng 270-302 cá nhân voọc đầu trắng vẫn còn tồn tại.
Đa dạng sinh học của Việt Nam đang phải chịu rủi ro cụ thể. Mặc dù Việt Nam có một phần đáng kể của các cấp đa dạng sinh học của đất, nước cũng có khả năng kỹ thuật và nguồn lực tài chính hạn chế để giải quyết những thách thức biến đổi khí hậu gây ra. Diện tích rừng và đất ngập nước đang bị thu hẹp nhanh chóng và nhiều loài thực vật và động vật đang bị đe dọa. Các hệ sinh thái của Việt Nam trong một số trường hợp dễ dàng hơn để phá vỡ và có thể dễ dàng bị ảnh hưởng bởi các biến động của thời tiết.
Xem thêm Biến đổi khí hậu sẽ “cướp” đất canh tác